I. Lịch sử cà phê Việt Nam.
1. Khởi sự của cây cà phê ở Việt Nam.
2. Người Pháp đã mang hai loại cà phê khác đến Việt Nam.
II. Qua nhiều năm trồng cà phê.
1. Công cuộc cải cách, và bước nhảy vọt về sản lượng.
Năm 1980 một chương trình phát triển cà phê ở Việt nam. Do công ty cà phê ca cao thuộc Bộ nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm xây dựng. Được trình lên Thường trực Hội đồng Bộ trưởng và được cho phép thực hiện. Tiếp đó là một loạt các hiệp định hợp tác sản xuất cà phê được ký kết. Giữa chính phủ Việt nam và Liên xô (trồng mới 20.000 ha cà phê), CHDC Đức (10.000 ha). Bungary (5.000 ha), Tiệp khắc (5000 ha) và Ba lan (5000 ha) – Theo Đoàn Triệu Nhạn, VICOFA.
2. Năm thành lập “Liên hiệp các xí nghiệp cà phê”
3. Cà phê Việt, sau hơn một thế kỷ.
III. Cuộc cải cách lĩnh vực cà phê.
Trong 30 năm (từ 1986 đến năm 2016) sản lượng cà phê tại Việt Nam. Đã tăng gần 100 lần, từ 18.400 tấn năm 1986, lên 900.000 tấn năm 2000. Và đạt 1,76 triệu tấn trong năm 2016. Trong đó có từ 90% đến 95% sản lượng được xuất khẩu hàng năm. Theo ICO
Trong những năm gần đây các ban ngành, nhà nước đã tìm cách nâng cao chất lượng cà phê xuất khẩu. Bao gồm việc mở rộng các vùng sản xuất cà phê chè – Ngày nay chủ yếu được trồng ở các tỉnh phía Bắc. Như Quảng Trị (Quảng Trị) và Sơn La. Tuy nhiên, khu vực quan trọng nhất về cà phê nói chung vẫn là Tây Nguyên. (Đăk Lăk, Kon Tum và Lâm Đồng. Tây Nguyên đã dẫn đầu sản xuất cà phê Robusta cả về diện tích và sản lượng. Nó nổi tiếng không chỉ ở Việt Nam, mà còn trên toàn thế giới. Với một số chỉ dẫn địa lý như ‘Buôn Ma Thuot’, Cầu Đạt – Đà Lạt,.. . Được biết đến với chất vị mạnh mẽ do đặc tính của đất.